Chè là loại cây trồng lâu năm và có nhiệm kỳ kinh tế khá lâu dài. Một lần có thể thu hoạch tới 30 năm hoặc có thể là lâu hơn nữa, điều đó còn phụ thuộc vào người nuôi dưỡng chăm sóc. Hiện tại chè là cây trồng đem đến những giá trị hàng hóa cũng như giá trị xuất khẩu khá cao. Thị trường tiêu dùng vô cùng ổn định và nhu cầu xuất khẩu cũng ngày càng tăng cao hơn. Chính vì thế mà giá trị của chè trên thị trường quốc tế trong những năm gần đây khá ổn định. Theo thông tin được cập nhật gần đây nhất về phân tích từ các chuyên gia về kinh tế cho rằng xuất khẩu chè đang có xu hướng tăng trưởng trong 6 tháng đầu năm.
Theo phân tích của cục xuất nhập khẩu cho hay
Nửa đầu năm 2021, chè Việt Nam tăng 4,4% tổng giá trị xuất khẩu. Và tăng 4,1% giá xuất khẩu bình quân so với cùng kỳ năm 2020. Theo Cục Xuất Nhập khẩu (Bộ Công thương), trong 6 tháng đầu năm 2021. Xuất khẩu chè đạt 58.100 tấn, trị giá 94,9 triệu USD, tăng 0,3% về lượng. Và tăng 4,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè xuất khẩu bình quân trong nửa đầu năm 2021 là 1.632,9 USD/tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm ngoái.
Ba thị trường xuất khẩu chủ yếu của chè Việt Nam trong 6 tháng đầu năm. Đó chính là Pakistan, Đài Loan và Nga. Lượng xuất khẩu tới 3 nước này chiếm 55,4% tổng lượng chè xuất khẩu. Về tốc độ tăng trưởng, lượng và trị giá xuất khẩu tới Pakistan và Đài Loan tăng khá. Tăng mạnh nhất là xuất khẩu sang Trung Quốc, Iraq và Ấn Độ. Trong đó, lượng và trị giá xuất khẩu tới thị trường Ấn Độ được đánh giá là tăng trưởng nóng.
Tính riêng trong tháng 6/2021, theo Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính). Xuất khẩu chè của Việt Nam đạt 11.100 tấn, trị giá 19,6 triệu USD, giảm 7,8% về lượng. Và giảm 2,4% về trị giá so với tháng 6/2020. Tuy nhiên, giá chè xuất khẩu bình quân trong tháng 6/2021, đạt 1.761,1 USD/tấn, tăng 5,8% so với tháng 6/2020.
Tình hình sản xuất tiêu thụ chè trong và ngoài nước
Lượng chè sản xuất trên toàn thế giới đã vượt qua con số 4 triệu tấn để đạt mức 4.126.527 tấn. Trong đó Việt Nam là một trong những nước có sản lượng chè sản xuất đứng thứ 5. Qua thống kê sản phẩm chè của các nước trên thế giới thì thị phần Châu Á chiếm 83% sản lượng chè thế giới. Tiếp theo là Châu phi chiếm 15% và Nam Mỹ chiếm 2,4%.
Về thị trường tiêu thụ trong giai đoạn gần đây, nhập khẩu chè đen thế giới ước tính khoảng 1,15 triệu tấn, mức tăng trung bình khoảng 0,6%/năm. Các nước nhập khẩu chính như Anh, Nga, Pakistan, Mỹ, Nhật Bản… sẽ chiếm khoảng 60% tổng lượng nhập khẩu chè toàn thế giới. Những thị trường tiêu thụ lớn nhất đối với sản phẩm chè xanh và chè đen là: Thị trường Nga (đã nhập khẩu trên 174.000 tấn, Pakistan nhập khẩu 126.170 tấn, Hy Lạp nhập khẩu 81.700 tấn, Iran nhập khẩu 62.000 tấn, và Morocco nhập khẩu 58.000 tấn.) Ngoài ra còn có các chi nhánh bán lẻ ở thị trường Mỹ và Canada với tổng số lượng chè nhập khẩu lên tới 144.000 tấn, Vương quốc Anh là 126.000 tấn, và EU với tổng số lượng chè nhập khẩu là 128.000 tấn.
Thị trường thế giới nhập khẩu chè nhiều nhất
Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) đánh giá. Để chè Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nga còn nhiều. Năm 2020, Nga giảm 7,9% lượng chè nhập khẩu. Nhưng sang 4 tháng đầu năm 2021, nước này tăng 4,8% về lượng. Giá nhập khẩu chè bình quân của Nga trong khoảng thời gian này là 2.907,1 USD/tấn.
Nga tăng mạnh nhập khẩu chè từ nhiều thị trường chính trong 4 tháng đầu năm 2021, nhưng giảm nhập khẩu từ Việt Nam. Nhập khẩu chè từ Việt Nam đạt 4.000 tấn, trị giá 6,7 triệu USD. Giảm 18,9% về lượng và giảm 15,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Giá chè nhập khẩu từ Việt Nam ở mức 1.684,4 USD/tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2020. Tỷ trọng nhập khẩu từ Việt Nam chiếm 10,6%, giảm 3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2020. Nguyên do, theo ITC, nằm ở chỗ Việt Nam xuất khẩu chè vào thị trường Nga chủ yếu là sơ chế ở dạng thô, có chất lượng không cao, giá trị thấp.
Về chủng loại, Nga nhập khẩu nhiều nhất là chè đen. Trong 4 tháng đầu năm 2021, nước này nhập khẩu 47.900 tấn. Trị giá 137,5 triệu USD, tăng 4,2% về lượng và tăng 12,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020. Nga hiện là thị trường nhập khẩu chè lớn thứ 3 thế giới về trị giá trong năm 2020. Tỷ trọng nhập khẩu chè của Nga chiếm 6,2% tổng trị giá nhập khẩu chè trên toàn cầu. ITC cho rằng, Việt Nam muốn đẩy mạnh xuất khẩu sang Nga; cần đầu tư mạnh vào dây chuyền sản xuất. Đưa các sản phẩm chè sơ chế vào chế biến. Ngoài ra, các doanh nghiệp Việt Nam phải chú trọng xây dựng thương hiệu; góp phần tăng giá trị thặng dư.